Trong một thời gian quá dài tôi không nhận ra điều đó, hoặc cứ cam chịu, đến giờ sự nhẫn nhịn đã hết rồi chăng? Tôi không có quyền tham gia vào tài chính trong nhà, nói cho dễ hiểu thì không có quyền động tay vào túi tiều của gia đình. Anh ấy không bao giờ nói cho tôi biết chúng tôi đang có bao nhiêu.
dịch vụ thành lập doanh nghiệp giá rẻ
Khoản tiền duy nhất tôi có là tiền chợ mỗi tuần, và tôi phải chi tiêu sát sạt với số tiền đó cho đến đồng cuối cùng, khi anh ấy kiểm tra lại tất cả các hóa đơn, khoản chi của tôi xong thì mới đưa tiền tiếp.
Anh ấy cũng trở nên bí mật hơn trong nhiều chuyện. Nhiều năm nay, đôi lúc tôi có hỏi anh về chuyện tôi muốn có thẻ phụ ngân hàng, tôi muốn quyền truy cập vào tài khoản ngân hàng, nhưng mỗi lần tôi đề cập chuyện đó, anh đều lảng đi và nói tôi không cần biết, đó là việc của anh ấy.
dịch vụ thành lập dn tại bắc ninh
Ngoài tôi ra, anh ấy có cả những mối quan hệ tình cảm khác. Những khi tôi chất vấn, anh ấy sẽ trả lời vòng vo và quẩn quanh. Nhưng phụ nữ mà, tôi đủ tinh tế để nhận ra anh ấy đang nói thật hay nói dối sau vài câu hỏi. Chỉ là, tôi không có bằng chứng, không dám đi thu thập bằng chứng, tôi sợ đau lòng.
dịch vụ thành lập văn phòng đại diện
Chúng tôi đã chung sống 10 năm dù chưa đăng ký kết hôn, vẫn dự tính sẽ làm đám cưới nhưng tôi không thể lên kế hoạch nào vì chẳng rõ chúng tôi đang có bao nhiêu. Chuyện này làm tôi rất buồn và không rõ liệu mình còn cần anh ấy hay không nữa. Anh ấy đang trở nên ngày càng xa lạ. Nhưng
- địa chỉ học kế toán thuế
- dịch vụ làm báo cáo tài chính cuối năm
- dịch vụ kế toán thuế trọn gói
- dịch vụ báo cáo tài chính vay vốn ngân hàng
- dịch vụ thanh tra dọn dẹp sổ sách kế toán
- dịch vụ giải thể doanh nghiệp
- học kế toán tổng hợp thực tế
- dịch vụ kế toán thuế tại tp hcm
- học kế toán trên phần mềm misa
Thứ Tư, 5 tháng 4, 2017
Thứ Hai, 3 tháng 4, 2017
Giáo dục người lớn: Một thiết chế giáo dục cần có chính sách ưu tiên
Giáo dục người lớn - một xu thế thế giới
Sự cần thiết và cấp bách của giáo dục người lớn (GDNL) đã được khẳng định trong bản báo cáo nổi tiếng của Edgar Faure “Học để tồn tại: Giáo dục hôm nay và ngày mai” (năm 1972).
Báo cáo này đã khẳng định “Giáo dục sẽ không còn là đặc quyền của một tầng lớp tinh hoa hay là vấn đề của một nhóm độ tuổi nào đó. Giáo dục sẽ dành cho tất cả mọi người và dành cho suốt cuộc đời của mỗi cá nhân”.
Trên cơ sở phân tích bất cập của hệ thống giáo dục đương thời trước những thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như trong sản xuất, Edgar Faure đã kiến nghị các nước thành viên cần phải cải cách hệ thống giáo dục của mình, lấy nguyên tắc ‘‘Học tập suốt đời’’ là “Chìa khoá chính”, do đó phải coi trọng phát triển GDNL song song với phát triển Giáo dục nhà trường chính quy cho trẻ em.
Các nước trên thế giới, đặc biệt các nước phát triển đã sớm nhận thức được rằng đầu tư vào “Vốn con người” là đầu tư cho phát triển, rằng đầu tư vào “vốn nhân lực” không chỉ đơn giản là đầu tư cho giáo dục giới trẻ để tạo nguồn nhân lực tương lai, mà đồng thời phải đầu tư vào việc tăng ngay kiến thức và chất lượng nguồn nhân lực hiện hành.
Cho đến nay, GDNL đã phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới, cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Ngày càng nhiều công trình nghiên cứu và những minh chứng thực tế khẳng định rằng việc học không chỉ dành cho trẻ em, rằng người lớn vẫn hoàn toàn có khả năng, có nhu cầu học và học tốt.
Bắt đầu từ cuối những năm 20 của thế kỉ XX, sự ra đời của cuốn sách “Việc học của người lớn” năm 1928 của E.L Thorndike (nhà giáo dục học người Mỹ) đã làm xoay chuyển nhận thức về khả năng học tập của người lớn. Các nghiên cứu ngày càng đi đến sự nhất trí cho rằng “Học tập của người lớn phải là việc kéo dài suốt cuộc đời;
Những kết quả nghiên cứu từ nhiều nguồn khác nhau đã cho thấy một hệ tâm lý khác biệt của người lớn. Ngày càng có nhiều nhà giáo dục trên thế giới khẳng định cần phải phát triển một chuyên ngành giáo dục mới, khác với Giáo dục học truyền thống (Padagogy). Đó là chuyên ngành “Giáo dục học người lớn” (Andragogy), mà người có công khởi xướng là một nhà giáo dục học người lớn nổi tiếng ở Mỹ - Malcom Knowles, người được mệnh danh là “Cha đẻ của Giáo dục học người lớn” (the Father of Andragogy).
UNESCO với vấn đề Giáo dục người lớn
UNESCO là Tổ chức Quốc tế sớm nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của GDNL và đã có nhiều Sáng kiến, nhiều Chương trình hành động và Khuyến nghị phát triển GDNl trên phạm vi toàn thế giới.
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, UNESCO đã tổ chức 6 Hội nghị thế giới GDNL nhằm rà soát, đánh giá tình hình phát triển GDNL ở các nước và đề xuất các Khuyến nghị, Chương trình hành động phát triển GDNL trên phạm vi toàn cầu.
Hội nghị thế giới GDNL lần thứ nhất tại Elsinor, Đan Mạch (1949)
Hội nghị thế giới GDNL lần thứ 2 tại Montreal, Canađa (1960)
Hội nghị thế giới GDNL lần thứ 3 tại Tokyo, Nhật Bản (1972)
Hội nghị thế giới GDNL lần 4 tại Paris, Pháp (1985)
Hội nghị thế giới GDNL lần 5 tại Hamburg, Đức (1997)
Hội nghị thế giới GDNL lần 6 tại Belem, Braxin (2009)
UNESCO ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của GDNL
Trong thập kỉ 50 của thế kỉ XX, GDNL được thừa nhận có vai trò quan trọng “Vì sự công bằng xã hội trong giáo dục” thông qua việc tạo cơ hội học tập cho những người thất học do chiến tranh, trong việc giáo dục tình yêu hoà bình, lòng khoan dung, đẩy mạnh dân chủ, tạo ra nền văn hoá chung.
Bước sang thập kỉ 60 của thế kỉ XX, GDNL được đánh giá giữ vai trò quan trọng “trong thế giới đang đổi thay”, trong việc đáp ứng nhu cầu cập nhật kiến thức của người dân trước sự “bùng nổ thông tin” và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kĩ thuật và công nghệ.
Đến thập kỉ 70 của thế kỉ XX, GDNL được đặt trong bối cảnh của “Giáo dục suốt đời”. Và được coi là công cụ đưa giáo dục thế giới ra khỏi cuộc khủng khoảng lúc bấy giờ.
Chuyển sang thập kỉ 80 của thế kỉ XX, vai trò của GDNL bắt đầu được khẳng định đối với đời sống kinh tế, văn hoá xã hội và góp phần giải quyết một số vấn đề toàn cầu như vấn đề dân số, môi trường, vấn đề củng cố hoà bình, tự do, công bằng và hợp tác quốc tế, giải quyết vấn đề bất bình đẳng giữa các tầng lớp, các nhóm dân cư, giữa các nước giàu và các nước nghèo, vấn đề dân chủ hoá giáo dục, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, các di sản văn hoá.
Đặc biệt, GDNL được đánh giá có vai trò quan trọng trong việc giúp mọi người học tập suốt đời, đặc biệt đối với nhóm đối tượng thiệt thòi, “bị bỏ quên” như phụ nữ, trẻ em gái, thanh niên thất nghiệp, người tàn tật, người già và người nghèo ở nông thôn...
Vào những thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX, GDNL được coi là “Chìa khoá” bước vào thế kỉ XXI và được thừa nhận đã có đóng góp to lớn vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế-xã hội, phát triển cá nhân và giải quyết những vấn đề có tính toàn cầu như xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, sự phát triển nhanh chóng của KHKT, sự xuất hiện ngày càng nhiều “xã hội thông tin” và “nền kinh tế tri thức” và những vấn đề có tính toàn cầu khác như vấn đề thất nghiệp, đói nghèo, ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, bản sắc văn hoá dân tộc v.v...
Bước sang thế kỉ XXI, GDNL được kỳ vọng sẽ tạo cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người để có thể chống chọi được với những thách thức của thời kỳ mới và được khẳng định là một bộ phận quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân của các nước, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu Phát triển Thiên Niên Kỷ (MTPTTNK) và Chương trình nghị sự về Phát triển bền vững” do Liên Hợp quốc đề ra.
Trong 21 điểm của chiến lược phát triển giáo dục thế kỉ XXI của UNESCO đã có tới 6 điểm nói về GDNL, trong đó điểm thứ 1 đã chỉ rõ trong chủ trương phát triển giáo dục những năm tới của các nước phát triển cũng như đang phát triển "GDNL phải là nét chủ đạo”.
Điểm thứ 2 trong Chiến lược này đã chỉ rõ “Giáo dục cho mọi lứa tuổi trong suốt cuộc đời, không chỉ bó hẹp trong 4 bức tường nhà trường, có nghĩa là phải cải tổ toàn diện nền giáo dục và phải đa dạng hóa các hình thức giáo dục”. Và điểm thứ 12 trong Chiến lược này đã khẳng định “Phát triển nhanh chóng GDNL phải là một mục tiêu ưu tiên của chiến lược giáo dục của các nước trong những năm tới”.
Nhận thức được vai trò ngày càng quan trọng của GDNL với tư cách là một trong 2 bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân của các nước, vì học tập (giáo dục) người lớn chính là học tập (giáo dục) không chính quy ngoài nhà trường, UNESCO đã đề nghị các quốc gia phải phát triển GDNL đồng thời với phát triển GDTE (Giáo dục trẻ em (Giáo dục chính quy trong nhà trường).
UNESCO đã khẳng định “GDNL có đối tượng riêng nên cần phải được tổ chức một cách có hệ thống; cần được đầu tư kinh phí; cần có tài liệu riêng; cần có đội ngũ giáo viên, chuyên trách riêng; đội ngũ giáo viên của GDNL cần phải được bồi dưỡng thường xuyên”. Đồng thời UNESCO cũng khuyến cáo GDNL “cần phải mềm dẻo, linh hoạt hơn và cần đến sự quan tâm và tham gia nhiều hơn của cộng đồng”.
Giáo dục không chính quy ở Việt Nam và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Ở Việt Nam, giáo dục không chính quy (GDNL) cũng đã được quan tâm phát triển từ rất sớm. Nguyên Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Giáo dục quốc dân Vũ Đình Hòe đã khẳng định “Giáo dục ở học đường và Giáo dục ngoài học đường phải được coi là hai bộ phận của một nền giáo dục, hai công việc của một tổ chức quan trọng như nhau và liên lạc mật thiết với nhau”. Ông cũng đã biên soạn cuốn sách “Một nền giáo dục bình dân” (1946) - một tài liệu quý về lý luận giáo dục bình dân/Giáo dục người lớn của Việt Nam.
Ngay sau khi thành lập nước, với tư cách là Bộ trưởng Bộ Giáo dục quốc dân, ông đã tham mưu với Hồ Chủ Tịch ban hành Sắc lệnh số 17 về việc thành lập Nha Bình dân học vụ để chăm nom việc học của dân chúng nhằm xóa nạn mù chữ do ông Nguyễn Công Mỹ làm Giám đốc.
Trong thời kỳ Bổ túc văn hóa (1965-1975), nhận thấy việc học ở các lớp Bổ túc văn hóa có nhiều khác biệt, so với học trong nhà trường chính quy, Chính phủ đã cho phép thành lập các trường sư phạm BTVH ở Trung ương và địa phương để đào tạo đội ngũ giáo viên chuyên dạy BTVH góp phần nâng cao chất lượng BTVH thời bấy giờ.
Số lượng các trường Sư phạm BTVH tăng lên nhanh chóng (từ 1966 đến 1970 tăng từ 13 lên đến 21 trường). Chỉ thị số 110/CP (ngày 13/7/1968) của Hội đồng Chính phủ đã nêu rõ “Tất cả các loại giáo viên BTVH đều được Nhà nước đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, văn hoá, nghiệp vụ ...”
Từ năm 2000 đến nay, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển Giáo dục không chính quy nhằm đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên, học tập suốt đời ngày càng tăng, ngày càng đa dạng của người lớn
* Nghị quyết Đại Hội IX của Đảng năm 2001 nêu rõ “Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính qui và giáo dục không chính qui, thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập”.
* Kết luận của Hội nghị TW 6, khoá IX (7/2002) khuyến khích “Phát triển giáo dục không chính qui, các hình thức học tập ở cộng đồng, ở các xã, phường gắn với nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế-xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập”.
* Hội nghị TW 7, khoá IX (3/2003) đã quyết định tiến hành cuộc vận động lớn toàn dân xây dựng phong trào “Cả nước trở thành một xã hội học tập” - “Học tập suốt đời”.
* Đại hội X (4/2006) đã chủ trương “Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, phát triển hệ thống học tập cho mọi người với những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời, tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục”.
* NQ ĐH XI (2011) chủ trương“Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hoá giáo dục và đào tạo trên cả 3 phương diện: động viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời”.
* Trong Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, Nhà nước chủ trương “Phát triển giáo dục không chính qui như là một hình thức huy động tiềm năng của cộng đồng để xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội học tập cho mọi người, ở mọi trình độ, mọi lứa tuổi, mọi nơi có thể học tập suốt đời, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của mỗi cá nhân, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực …”.
Trong xã hội học tập hệ giáo dục không chính quy gắn kết và liên thông với hệ giáo dục chính quy trong nền giáo dục quốc dân của mỗi quốc gia. Trong khi hệ giáo dục chính quy đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai thì hệ giáo dục không chính quy mà thực chất là giáo dục người lớn đào tạo, bồi dưỡng nhân lực hiện hành tức là những người đang lao động trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, xây dựng đất nước phát triển, phồn vinh.
thuê làm báo cáo tài chính tại bắc ninh
Thông qua giáo dục, học tập không chính quy, nhân lực hiện hành chủ yếu vừa làm vừa học, kiến thức được nâng cao, tay nghề được cải tiến, nghề nghiệp được hoàn thiện và trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, công nghệ không ngừng đổi mới, đặc biệt với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, tuy mới bắt đầu nhưng hứa hẹn nhiều biến đổi lớn lao, nhiều thành công đột biến; họ được tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiếp thu công nghệ mới, trên cơ sở đó nâng cao năng suất lao động và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Hệ giáo dục người lớn, giáo dục không chính quy là một thiết chế giáo dục của dân, do dân và vì dân, do đó nó phải được sự chỉ đạo của Nhà nước, và cần được có những chính sách ưu tiên trong một xã hội hiện đại.
dịch vụ kế toán thuế trọn gói tại hưng yên
Theo xu hướng chung trên thế giới hiện nay và căn cứ vai trò quan trọng, không thể thiếu được ở bất cứ một quốc gia nào của hệ giáo dục, học tập không chính quy với sự tham gia của đa số người dân theo hướng học tập cho mọi người và học tập suốt đời cần có một tổ chức đủ năng lực điều hành vì trong hệ này hình thức giáo dục, hình thức học tập rất đa dạng, rất linh hoạt do có nhiều yêu cầu, nhiều mục tiêu học tập khác nhau, và một sự đầu tư tài chính hợp lý.
dịch vụ kế toán thuế bctc tại bình dương
Yêu cầu này vẫn tồn tại cả khi đất nước đã trở thành một xã hội học tập.
Sự cần thiết và cấp bách của giáo dục người lớn (GDNL) đã được khẳng định trong bản báo cáo nổi tiếng của Edgar Faure “Học để tồn tại: Giáo dục hôm nay và ngày mai” (năm 1972).
Báo cáo này đã khẳng định “Giáo dục sẽ không còn là đặc quyền của một tầng lớp tinh hoa hay là vấn đề của một nhóm độ tuổi nào đó. Giáo dục sẽ dành cho tất cả mọi người và dành cho suốt cuộc đời của mỗi cá nhân”.
Trên cơ sở phân tích bất cập của hệ thống giáo dục đương thời trước những thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như trong sản xuất, Edgar Faure đã kiến nghị các nước thành viên cần phải cải cách hệ thống giáo dục của mình, lấy nguyên tắc ‘‘Học tập suốt đời’’ là “Chìa khoá chính”, do đó phải coi trọng phát triển GDNL song song với phát triển Giáo dục nhà trường chính quy cho trẻ em.
Các nước trên thế giới, đặc biệt các nước phát triển đã sớm nhận thức được rằng đầu tư vào “Vốn con người” là đầu tư cho phát triển, rằng đầu tư vào “vốn nhân lực” không chỉ đơn giản là đầu tư cho giáo dục giới trẻ để tạo nguồn nhân lực tương lai, mà đồng thời phải đầu tư vào việc tăng ngay kiến thức và chất lượng nguồn nhân lực hiện hành.
Cho đến nay, GDNL đã phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới, cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Ngày càng nhiều công trình nghiên cứu và những minh chứng thực tế khẳng định rằng việc học không chỉ dành cho trẻ em, rằng người lớn vẫn hoàn toàn có khả năng, có nhu cầu học và học tốt.
Bắt đầu từ cuối những năm 20 của thế kỉ XX, sự ra đời của cuốn sách “Việc học của người lớn” năm 1928 của E.L Thorndike (nhà giáo dục học người Mỹ) đã làm xoay chuyển nhận thức về khả năng học tập của người lớn. Các nghiên cứu ngày càng đi đến sự nhất trí cho rằng “Học tập của người lớn phải là việc kéo dài suốt cuộc đời;
Những kết quả nghiên cứu từ nhiều nguồn khác nhau đã cho thấy một hệ tâm lý khác biệt của người lớn. Ngày càng có nhiều nhà giáo dục trên thế giới khẳng định cần phải phát triển một chuyên ngành giáo dục mới, khác với Giáo dục học truyền thống (Padagogy). Đó là chuyên ngành “Giáo dục học người lớn” (Andragogy), mà người có công khởi xướng là một nhà giáo dục học người lớn nổi tiếng ở Mỹ - Malcom Knowles, người được mệnh danh là “Cha đẻ của Giáo dục học người lớn” (the Father of Andragogy).
UNESCO với vấn đề Giáo dục người lớn
UNESCO là Tổ chức Quốc tế sớm nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của GDNL và đã có nhiều Sáng kiến, nhiều Chương trình hành động và Khuyến nghị phát triển GDNl trên phạm vi toàn thế giới.
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, UNESCO đã tổ chức 6 Hội nghị thế giới GDNL nhằm rà soát, đánh giá tình hình phát triển GDNL ở các nước và đề xuất các Khuyến nghị, Chương trình hành động phát triển GDNL trên phạm vi toàn cầu.
Hội nghị thế giới GDNL lần thứ nhất tại Elsinor, Đan Mạch (1949)
Hội nghị thế giới GDNL lần thứ 2 tại Montreal, Canađa (1960)
Hội nghị thế giới GDNL lần thứ 3 tại Tokyo, Nhật Bản (1972)
Hội nghị thế giới GDNL lần 4 tại Paris, Pháp (1985)
Hội nghị thế giới GDNL lần 5 tại Hamburg, Đức (1997)
Hội nghị thế giới GDNL lần 6 tại Belem, Braxin (2009)
UNESCO ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của GDNL
Trong thập kỉ 50 của thế kỉ XX, GDNL được thừa nhận có vai trò quan trọng “Vì sự công bằng xã hội trong giáo dục” thông qua việc tạo cơ hội học tập cho những người thất học do chiến tranh, trong việc giáo dục tình yêu hoà bình, lòng khoan dung, đẩy mạnh dân chủ, tạo ra nền văn hoá chung.
Bước sang thập kỉ 60 của thế kỉ XX, GDNL được đánh giá giữ vai trò quan trọng “trong thế giới đang đổi thay”, trong việc đáp ứng nhu cầu cập nhật kiến thức của người dân trước sự “bùng nổ thông tin” và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kĩ thuật và công nghệ.
Đến thập kỉ 70 của thế kỉ XX, GDNL được đặt trong bối cảnh của “Giáo dục suốt đời”. Và được coi là công cụ đưa giáo dục thế giới ra khỏi cuộc khủng khoảng lúc bấy giờ.
Chuyển sang thập kỉ 80 của thế kỉ XX, vai trò của GDNL bắt đầu được khẳng định đối với đời sống kinh tế, văn hoá xã hội và góp phần giải quyết một số vấn đề toàn cầu như vấn đề dân số, môi trường, vấn đề củng cố hoà bình, tự do, công bằng và hợp tác quốc tế, giải quyết vấn đề bất bình đẳng giữa các tầng lớp, các nhóm dân cư, giữa các nước giàu và các nước nghèo, vấn đề dân chủ hoá giáo dục, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, các di sản văn hoá.
Đặc biệt, GDNL được đánh giá có vai trò quan trọng trong việc giúp mọi người học tập suốt đời, đặc biệt đối với nhóm đối tượng thiệt thòi, “bị bỏ quên” như phụ nữ, trẻ em gái, thanh niên thất nghiệp, người tàn tật, người già và người nghèo ở nông thôn...
Vào những thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX, GDNL được coi là “Chìa khoá” bước vào thế kỉ XXI và được thừa nhận đã có đóng góp to lớn vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế-xã hội, phát triển cá nhân và giải quyết những vấn đề có tính toàn cầu như xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, sự phát triển nhanh chóng của KHKT, sự xuất hiện ngày càng nhiều “xã hội thông tin” và “nền kinh tế tri thức” và những vấn đề có tính toàn cầu khác như vấn đề thất nghiệp, đói nghèo, ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, bản sắc văn hoá dân tộc v.v...
Bước sang thế kỉ XXI, GDNL được kỳ vọng sẽ tạo cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người để có thể chống chọi được với những thách thức của thời kỳ mới và được khẳng định là một bộ phận quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân của các nước, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu Phát triển Thiên Niên Kỷ (MTPTTNK) và Chương trình nghị sự về Phát triển bền vững” do Liên Hợp quốc đề ra.
Trong 21 điểm của chiến lược phát triển giáo dục thế kỉ XXI của UNESCO đã có tới 6 điểm nói về GDNL, trong đó điểm thứ 1 đã chỉ rõ trong chủ trương phát triển giáo dục những năm tới của các nước phát triển cũng như đang phát triển "GDNL phải là nét chủ đạo”.
Điểm thứ 2 trong Chiến lược này đã chỉ rõ “Giáo dục cho mọi lứa tuổi trong suốt cuộc đời, không chỉ bó hẹp trong 4 bức tường nhà trường, có nghĩa là phải cải tổ toàn diện nền giáo dục và phải đa dạng hóa các hình thức giáo dục”. Và điểm thứ 12 trong Chiến lược này đã khẳng định “Phát triển nhanh chóng GDNL phải là một mục tiêu ưu tiên của chiến lược giáo dục của các nước trong những năm tới”.
Nhận thức được vai trò ngày càng quan trọng của GDNL với tư cách là một trong 2 bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân của các nước, vì học tập (giáo dục) người lớn chính là học tập (giáo dục) không chính quy ngoài nhà trường, UNESCO đã đề nghị các quốc gia phải phát triển GDNL đồng thời với phát triển GDTE (Giáo dục trẻ em (Giáo dục chính quy trong nhà trường).
UNESCO đã khẳng định “GDNL có đối tượng riêng nên cần phải được tổ chức một cách có hệ thống; cần được đầu tư kinh phí; cần có tài liệu riêng; cần có đội ngũ giáo viên, chuyên trách riêng; đội ngũ giáo viên của GDNL cần phải được bồi dưỡng thường xuyên”. Đồng thời UNESCO cũng khuyến cáo GDNL “cần phải mềm dẻo, linh hoạt hơn và cần đến sự quan tâm và tham gia nhiều hơn của cộng đồng”.
Giáo dục không chính quy ở Việt Nam và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Ở Việt Nam, giáo dục không chính quy (GDNL) cũng đã được quan tâm phát triển từ rất sớm. Nguyên Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Giáo dục quốc dân Vũ Đình Hòe đã khẳng định “Giáo dục ở học đường và Giáo dục ngoài học đường phải được coi là hai bộ phận của một nền giáo dục, hai công việc của một tổ chức quan trọng như nhau và liên lạc mật thiết với nhau”. Ông cũng đã biên soạn cuốn sách “Một nền giáo dục bình dân” (1946) - một tài liệu quý về lý luận giáo dục bình dân/Giáo dục người lớn của Việt Nam.
Ngay sau khi thành lập nước, với tư cách là Bộ trưởng Bộ Giáo dục quốc dân, ông đã tham mưu với Hồ Chủ Tịch ban hành Sắc lệnh số 17 về việc thành lập Nha Bình dân học vụ để chăm nom việc học của dân chúng nhằm xóa nạn mù chữ do ông Nguyễn Công Mỹ làm Giám đốc.
Trong thời kỳ Bổ túc văn hóa (1965-1975), nhận thấy việc học ở các lớp Bổ túc văn hóa có nhiều khác biệt, so với học trong nhà trường chính quy, Chính phủ đã cho phép thành lập các trường sư phạm BTVH ở Trung ương và địa phương để đào tạo đội ngũ giáo viên chuyên dạy BTVH góp phần nâng cao chất lượng BTVH thời bấy giờ.
Số lượng các trường Sư phạm BTVH tăng lên nhanh chóng (từ 1966 đến 1970 tăng từ 13 lên đến 21 trường). Chỉ thị số 110/CP (ngày 13/7/1968) của Hội đồng Chính phủ đã nêu rõ “Tất cả các loại giáo viên BTVH đều được Nhà nước đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, văn hoá, nghiệp vụ ...”
Từ năm 2000 đến nay, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển Giáo dục không chính quy nhằm đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên, học tập suốt đời ngày càng tăng, ngày càng đa dạng của người lớn
* Nghị quyết Đại Hội IX của Đảng năm 2001 nêu rõ “Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính qui và giáo dục không chính qui, thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập”.
* Kết luận của Hội nghị TW 6, khoá IX (7/2002) khuyến khích “Phát triển giáo dục không chính qui, các hình thức học tập ở cộng đồng, ở các xã, phường gắn với nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế-xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập”.
* Hội nghị TW 7, khoá IX (3/2003) đã quyết định tiến hành cuộc vận động lớn toàn dân xây dựng phong trào “Cả nước trở thành một xã hội học tập” - “Học tập suốt đời”.
* Đại hội X (4/2006) đã chủ trương “Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, phát triển hệ thống học tập cho mọi người với những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời, tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục”.
* NQ ĐH XI (2011) chủ trương“Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hoá giáo dục và đào tạo trên cả 3 phương diện: động viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời”.
* Trong Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, Nhà nước chủ trương “Phát triển giáo dục không chính qui như là một hình thức huy động tiềm năng của cộng đồng để xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội học tập cho mọi người, ở mọi trình độ, mọi lứa tuổi, mọi nơi có thể học tập suốt đời, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của mỗi cá nhân, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực …”.
Trong xã hội học tập hệ giáo dục không chính quy gắn kết và liên thông với hệ giáo dục chính quy trong nền giáo dục quốc dân của mỗi quốc gia. Trong khi hệ giáo dục chính quy đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai thì hệ giáo dục không chính quy mà thực chất là giáo dục người lớn đào tạo, bồi dưỡng nhân lực hiện hành tức là những người đang lao động trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, xây dựng đất nước phát triển, phồn vinh.
thuê làm báo cáo tài chính tại bắc ninh
Thông qua giáo dục, học tập không chính quy, nhân lực hiện hành chủ yếu vừa làm vừa học, kiến thức được nâng cao, tay nghề được cải tiến, nghề nghiệp được hoàn thiện và trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, công nghệ không ngừng đổi mới, đặc biệt với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, tuy mới bắt đầu nhưng hứa hẹn nhiều biến đổi lớn lao, nhiều thành công đột biến; họ được tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiếp thu công nghệ mới, trên cơ sở đó nâng cao năng suất lao động và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Hệ giáo dục người lớn, giáo dục không chính quy là một thiết chế giáo dục của dân, do dân và vì dân, do đó nó phải được sự chỉ đạo của Nhà nước, và cần được có những chính sách ưu tiên trong một xã hội hiện đại.
dịch vụ kế toán thuế trọn gói tại hưng yên
Theo xu hướng chung trên thế giới hiện nay và căn cứ vai trò quan trọng, không thể thiếu được ở bất cứ một quốc gia nào của hệ giáo dục, học tập không chính quy với sự tham gia của đa số người dân theo hướng học tập cho mọi người và học tập suốt đời cần có một tổ chức đủ năng lực điều hành vì trong hệ này hình thức giáo dục, hình thức học tập rất đa dạng, rất linh hoạt do có nhiều yêu cầu, nhiều mục tiêu học tập khác nhau, và một sự đầu tư tài chính hợp lý.
dịch vụ kế toán thuế bctc tại bình dương
Yêu cầu này vẫn tồn tại cả khi đất nước đã trở thành một xã hội học tập.
Trung Quốc lo ngại về hệ thống tên lửa THAAD vì “mù mờ” thông tin
Theo Reuters, trong khi Mỹ liên tục khẳng định THAAD được triển khai là để bảo vệ đồng minh Hàn Quốc trước nguy cơ ngày càng tăng từ chương trình tên lửa và hạt nhân của Triều Tiên, một số chiến lược gia Trung Quốc tin rằng hệ thống này là mối đe dọa đối với năng lực ngăn chặn hạt nhân của Trung Quốc.
“Một điều rõ ràng đó là không ai ở Trung Quốc có thể nắm đầy đủ thông tin về năng lực kỹ thuật của THAAD và đó là một phần của vấn đề”, Zhang Baohui, chuyên gia về năng lực hạt nhân Trung Quốc, cho biết.
“Năng lực thực sự của THAAD vẫn là một bí mật và đây vẫn là một lỗ hổng kiến thức mà các chiến lược gia Trung Quốc chưa thể lấp đầy. Trong trường hợp họ vẫn chưa hiểu đầy đủ về hệ thống này, thì đúng là họ phải quan ngại về nó và buộc phải nghĩ tới một viễn cảnh tồi tệ nhất”, chuyên gia Zhang nhận định thêm.
thuê dịch vụ kế toán tại hải phòng
Trong khi đó, trong các tuyên bố chính thức của mình, Trung Quốc cho biết nước này phản đối THAAD vì hệ thống hiện đại này sẽ gây bất ổn cho sự cân bằng về an ninh trong khu vực. Theo giới chức Trung Quốc, phạm vi hoạt động được cho là lên tới 2.000 km từ sóng radar cực mạnh của THAAD có thể xâm nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Theo các chuyên gia, đây mới thực sự là điều khiến Bắc Kinh lo ngại hơn cả, chứ không chỉ đơn thuần là những tên lửa đánh chặn tầm ngắn mà THAAD phóng đi để đánh chặn tên lửa Triều Tiên.
Một số chuyên gia Trung Quốc nhận định phạm vi radar của THAAD có thể giúp hệ thống này bao quát cả các khu phóng tên lửa nằm sâu trong vùng lãnh thổ phía đông bắc Trung Quốc - nơi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) tiến hành thử nghiệm các tên lửa tầm xa mới nhất của nước này.
Ngoài ra, giới khoa học Trung Quốc cũng lo ngại rằng radar của THAAD đủ tinh vi để cho phép Mỹ có thể theo dõi các vụ thử tên lửa cũng như các đặc tính cụ thể của tên lửa Trung Quốc, từ đó giúp Washington chuẩn bị tốt hơn các biện pháp đối phó với các cuộc tấn công từ Bắc Kinh trong tương lai.
dịch vụ kế toán thuế tại biên hòa đồng nai
Một số ý kiến khác phỏng đoán hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ tại Hàn Quốc sẽ được kết nối với một mạng lưới radar cảnh báo sớm, các thiết bị cảm biến và hệ thống kiểm soát trận địa rộng hơn do Mỹ dẫn đầu trong khu vực, từ đó kết nối các quốc gia lân cận với nhau để tạo thành một liên minh.
Li Bin, chuyên gia an ninh tại Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc), cho biết radar THAAD sẽ cho phép quân đội Mỹ trực tiếp thu thập các dữ liệu về tên lửa của Bắc Kinh, điều mà Washington có thể không làm được nếu phải nhờ đến nguồn tin từ bên thứ 3. Theo đó, các chuyên gia cũng đề xuất các biện pháp mà PLA có thể sử dụng để đối phó với THAAD, bao gồm việc triển khai các vũ khí laser hay các thiết bị làm nhiễu sóng.
dịch vụ thành lập công ty
THAAD là một trong những vấn đề gai góc, gây căng thẳng trong quan hệ ngoại giao Trung - Mỹ và Trung - Hàn thời gian qua. Các chủ đề liên quan đến hệ thống phòng thủ tên lửa hiện đại này có thể sẽ được đưa ra bàn thảo trong cuộc gặp cấp cao giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ Donald Trump vào cuối tuần này tại Mỹ.
“Một điều rõ ràng đó là không ai ở Trung Quốc có thể nắm đầy đủ thông tin về năng lực kỹ thuật của THAAD và đó là một phần của vấn đề”, Zhang Baohui, chuyên gia về năng lực hạt nhân Trung Quốc, cho biết.
“Năng lực thực sự của THAAD vẫn là một bí mật và đây vẫn là một lỗ hổng kiến thức mà các chiến lược gia Trung Quốc chưa thể lấp đầy. Trong trường hợp họ vẫn chưa hiểu đầy đủ về hệ thống này, thì đúng là họ phải quan ngại về nó và buộc phải nghĩ tới một viễn cảnh tồi tệ nhất”, chuyên gia Zhang nhận định thêm.
thuê dịch vụ kế toán tại hải phòng
Trong khi đó, trong các tuyên bố chính thức của mình, Trung Quốc cho biết nước này phản đối THAAD vì hệ thống hiện đại này sẽ gây bất ổn cho sự cân bằng về an ninh trong khu vực. Theo giới chức Trung Quốc, phạm vi hoạt động được cho là lên tới 2.000 km từ sóng radar cực mạnh của THAAD có thể xâm nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Theo các chuyên gia, đây mới thực sự là điều khiến Bắc Kinh lo ngại hơn cả, chứ không chỉ đơn thuần là những tên lửa đánh chặn tầm ngắn mà THAAD phóng đi để đánh chặn tên lửa Triều Tiên.
Một số chuyên gia Trung Quốc nhận định phạm vi radar của THAAD có thể giúp hệ thống này bao quát cả các khu phóng tên lửa nằm sâu trong vùng lãnh thổ phía đông bắc Trung Quốc - nơi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) tiến hành thử nghiệm các tên lửa tầm xa mới nhất của nước này.
Ngoài ra, giới khoa học Trung Quốc cũng lo ngại rằng radar của THAAD đủ tinh vi để cho phép Mỹ có thể theo dõi các vụ thử tên lửa cũng như các đặc tính cụ thể của tên lửa Trung Quốc, từ đó giúp Washington chuẩn bị tốt hơn các biện pháp đối phó với các cuộc tấn công từ Bắc Kinh trong tương lai.
dịch vụ kế toán thuế tại biên hòa đồng nai
Một số ý kiến khác phỏng đoán hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ tại Hàn Quốc sẽ được kết nối với một mạng lưới radar cảnh báo sớm, các thiết bị cảm biến và hệ thống kiểm soát trận địa rộng hơn do Mỹ dẫn đầu trong khu vực, từ đó kết nối các quốc gia lân cận với nhau để tạo thành một liên minh.
Li Bin, chuyên gia an ninh tại Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc), cho biết radar THAAD sẽ cho phép quân đội Mỹ trực tiếp thu thập các dữ liệu về tên lửa của Bắc Kinh, điều mà Washington có thể không làm được nếu phải nhờ đến nguồn tin từ bên thứ 3. Theo đó, các chuyên gia cũng đề xuất các biện pháp mà PLA có thể sử dụng để đối phó với THAAD, bao gồm việc triển khai các vũ khí laser hay các thiết bị làm nhiễu sóng.
dịch vụ thành lập công ty
THAAD là một trong những vấn đề gai góc, gây căng thẳng trong quan hệ ngoại giao Trung - Mỹ và Trung - Hàn thời gian qua. Các chủ đề liên quan đến hệ thống phòng thủ tên lửa hiện đại này có thể sẽ được đưa ra bàn thảo trong cuộc gặp cấp cao giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ Donald Trump vào cuối tuần này tại Mỹ.
Chính phủ mở kênh tương tác với dân trên mạng
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Chính phủ chiều 3/4, Bộ trưởng – Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng thông tin về việc hệ thống tiếp nhận, trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân tại địa chỉ trên đã chính thức được đi vào hoạt động, song song với kênh thông tin “Chính phủ với doanh nghiệp” đã vận hành trước đó.
dịch vụ kế toán thuế tp hcm
Đây là kênh thông tin tương tác mới giữa Chính phủ với người dân do Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP trực tiếp chỉ đạo thực hiện nhằm góp phần hiện thực hóa quyết tâm của Chính phủ, Thủ tướng về xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt phục vụ nhân dân.
Theo Bộ trưởng Mai Tiến Dũng, với hệ thống này, người dân dễ dàng truy cập từ máy vi tính, thiết bị di động được kết nối internet để gửi, theo dõi, nhận kết quả trả lời phản ánh, kiến nghị của mình về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính không phù hợp với thực tế, không đồng bộ, không thống nhất, không hợp pháp.
Hành vi chậm trễ, gây phiền hà hoặc không thực hiện, thực hiện không đúng quy định của cán bộ, công chức, viên chức trong giải quyết thủ tục hành chính cũng sẽ được nắm bắt nhanh chóng.
dịch vụ báo cáo tài chính cuối năm giá rẻ
“Thông qua hệ thống, cơ quan hành chính nhà nước các cấp sẽ tiếp nhận, trả lời những phản ánh, kiến nghị của người dân theo từng lĩnh vực, từng cơ quan xử lý. Văn phòng Chính phủ sẽ nghiên cứu tiếp thu những đề xuất, sáng kiến cải cách thủ tục hành chính để xây dựng hệ thống hành chính nhà nước thống nhất, hiệu lực, hiệu quả, thực hiện tốt nhiệm vụ kiến tạo phát triển. Đặc biệt, thông qua hệ thống, người dân, doanh nghiệp có thể đánh giá, chấm điểm việc trả lời của các cơ quan chức năng” - Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nói.
Ông cũng chia sẻ, với tinh thần cầu thị, mọi phản ánh, kiến nghị của người dân đều được Chính phủ lắng nghe, Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm hướng dẫn, theo dõi, tổng hợp, đôn đốc, kiểm tra các bộ, ngành, địa phương trong việc tiếp nhận, trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân.
dịch vụ báo cáo tài chính hải phòng
Trao đổi thêm bên lề cuộc họp báo, người phát ngôn Chính phủ khẳng định, hệ thống tương tác này chính là một kênh giám sát tăng thêm đối với hoạt động của Chính phủ, các cơ quan Chính phủ trong việc phục vụ người dân. Áp lực đặt ra, trước hết là với chính Văn phòng Chính phủ rất lớn nhưng đây cũng là một công cụ để để người dân có thể đồng hành với Chính phủ trong xây dựng hoàn thiện thể chế, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính vì sự thịnh vượng của đất nước.
dịch vụ kế toán thuế tp hcm
Đây là kênh thông tin tương tác mới giữa Chính phủ với người dân do Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP trực tiếp chỉ đạo thực hiện nhằm góp phần hiện thực hóa quyết tâm của Chính phủ, Thủ tướng về xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt phục vụ nhân dân.
Theo Bộ trưởng Mai Tiến Dũng, với hệ thống này, người dân dễ dàng truy cập từ máy vi tính, thiết bị di động được kết nối internet để gửi, theo dõi, nhận kết quả trả lời phản ánh, kiến nghị của mình về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính không phù hợp với thực tế, không đồng bộ, không thống nhất, không hợp pháp.
Hành vi chậm trễ, gây phiền hà hoặc không thực hiện, thực hiện không đúng quy định của cán bộ, công chức, viên chức trong giải quyết thủ tục hành chính cũng sẽ được nắm bắt nhanh chóng.
dịch vụ báo cáo tài chính cuối năm giá rẻ
“Thông qua hệ thống, cơ quan hành chính nhà nước các cấp sẽ tiếp nhận, trả lời những phản ánh, kiến nghị của người dân theo từng lĩnh vực, từng cơ quan xử lý. Văn phòng Chính phủ sẽ nghiên cứu tiếp thu những đề xuất, sáng kiến cải cách thủ tục hành chính để xây dựng hệ thống hành chính nhà nước thống nhất, hiệu lực, hiệu quả, thực hiện tốt nhiệm vụ kiến tạo phát triển. Đặc biệt, thông qua hệ thống, người dân, doanh nghiệp có thể đánh giá, chấm điểm việc trả lời của các cơ quan chức năng” - Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nói.
Ông cũng chia sẻ, với tinh thần cầu thị, mọi phản ánh, kiến nghị của người dân đều được Chính phủ lắng nghe, Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm hướng dẫn, theo dõi, tổng hợp, đôn đốc, kiểm tra các bộ, ngành, địa phương trong việc tiếp nhận, trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân.
dịch vụ báo cáo tài chính hải phòng
Trao đổi thêm bên lề cuộc họp báo, người phát ngôn Chính phủ khẳng định, hệ thống tương tác này chính là một kênh giám sát tăng thêm đối với hoạt động của Chính phủ, các cơ quan Chính phủ trong việc phục vụ người dân. Áp lực đặt ra, trước hết là với chính Văn phòng Chính phủ rất lớn nhưng đây cũng là một công cụ để để người dân có thể đồng hành với Chính phủ trong xây dựng hoàn thiện thể chế, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính vì sự thịnh vượng của đất nước.
Chủ Nhật, 2 tháng 4, 2017
Làm việc nhà khiến trẻ thành công hơn trong tương lai
Trường đại học Harvard đã tiến hành nghiên cứu suốt 75 năm và đưa ra kết luận rằng làm việc nhà đem lại rất nhiều lợi ích cho trẻ em. Theo đó, các nhà khoa học chia ra theo dõi, phân tích hai nhóm người.
Nhóm thứ nhất mang tên Grant Study, bao gồm 268 sinh viên tốt nghiệp Harvard từ năm 1939 đến năm 1944. Nhóm thứ hai mang tên Glueck Study, bao gồm 465 nam giới lớn lên ở vùng nội thành nghèo khó thuộc thành phố Boston. Các đối tượng này được kiểm tra thường xuyên biến đổi về mặt tâm lý xã hội cũng như quá trình sinh học nhằm dự báo sức khỏe, hạnh phúc trong suốt cuộc đời.
thành lập dn tại nam định
Kết quả cho thấy những cá nhân phải làm việc nhà ngay từ khi còn nhỏ thường trở thành người độc lập khi trưởng thành, có khả năng làm việc nhóm, thấu hiểu tốt hơn dù áp lực của những công việc đó có từng làm họ khó chịu hay không. Áp lực việc nhà từ nhỏ cũng đã xây dựng nên tâm lý “có thể làm được, có thể vượt qua”, thúc đẩy những người này đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp cũng như trong việc tạo dựng mối quan hệ cá nhân.
thành lập doanh nghiệp tại hưng yên
“Để có được bức tranh rõ nét nhất về cuộc sống của những người tham gia, chúng tôi đã phỏng vấn họ trong phòng khách, nhận hồ sơ bệnh án từ bác sĩ, lấy máu, quét não, trò chuyện cùng con cái họ. Chúng tôi thậm chí còn hỏi vợ của họ xem có thể tham gia cùng mình. Mặc dù mục đích ban đầu của dự án là để tìm hiểu rõ hơn về mối liên hệ hạnh phúc nhưng phát hiện mới về việc nhà này chắc chắn sẽ là một bất ngờ thú vị cho các bậc phụ huynh.”, Robert Waldinger, người đứng đầu nghiên cứu chia sẻ. thành lập dn tại hải phòng
Nhóm thứ nhất mang tên Grant Study, bao gồm 268 sinh viên tốt nghiệp Harvard từ năm 1939 đến năm 1944. Nhóm thứ hai mang tên Glueck Study, bao gồm 465 nam giới lớn lên ở vùng nội thành nghèo khó thuộc thành phố Boston. Các đối tượng này được kiểm tra thường xuyên biến đổi về mặt tâm lý xã hội cũng như quá trình sinh học nhằm dự báo sức khỏe, hạnh phúc trong suốt cuộc đời.
thành lập dn tại nam định
Kết quả cho thấy những cá nhân phải làm việc nhà ngay từ khi còn nhỏ thường trở thành người độc lập khi trưởng thành, có khả năng làm việc nhóm, thấu hiểu tốt hơn dù áp lực của những công việc đó có từng làm họ khó chịu hay không. Áp lực việc nhà từ nhỏ cũng đã xây dựng nên tâm lý “có thể làm được, có thể vượt qua”, thúc đẩy những người này đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp cũng như trong việc tạo dựng mối quan hệ cá nhân.
thành lập doanh nghiệp tại hưng yên
“Để có được bức tranh rõ nét nhất về cuộc sống của những người tham gia, chúng tôi đã phỏng vấn họ trong phòng khách, nhận hồ sơ bệnh án từ bác sĩ, lấy máu, quét não, trò chuyện cùng con cái họ. Chúng tôi thậm chí còn hỏi vợ của họ xem có thể tham gia cùng mình. Mặc dù mục đích ban đầu của dự án là để tìm hiểu rõ hơn về mối liên hệ hạnh phúc nhưng phát hiện mới về việc nhà này chắc chắn sẽ là một bất ngờ thú vị cho các bậc phụ huynh.”, Robert Waldinger, người đứng đầu nghiên cứu chia sẻ. thành lập dn tại hải phòng
Đánh giá tác động lâu dài của thuốc tránh thai đường uống
Căn cứ trên phân tích hơn 46.000 phụ nữ, các nhà nghiên cứu từ Đại học Aberdeen ở Anh đã phát hiện ra rằng những phụ nữ từng sử dụng thuốc tránh thai uống có nguy cơ ung thư đại trực tràng, buồng trứng và nội mạc tử cung thấp hơn so với những phụ nữ chưa bao giờ uống thuốc tránh thai.
dịch vụ thành lập văn phòng đại diện
Hơn nữa, nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan giữa sử dụng thuốc tránh thai uống trong độ tuổi sinh đẻ và tăng nguy cơ ung thư mới trong cuộc sống sau này.
Nghiên cứu do TS Lisa Iversen, Viện Khoa học Y tế ứng dụng tại Aberdeen dẫn đầu, và kết quả mới được công bố trên tờ American Journal of Obstetrics and Gynaecology.
Theo Trung tâm Phòng chống bệnh dịch (CDC), khoảng 16% phụ nữ Mỹ từ 15 đến 44 tuổi hiện đang sử dụng thuốc tránh thai uống làm phương pháp ngừa thai.
“Viên phối hợp" là dạng thuốc tránh thai uống phổ biến nhất. Dạng thuốc này chứa phiên bản tổng hợp của các hoóc-môn estrogen và progesterone.
dịch vụ thành lập công ty tư nhân
Vì estrogen và progesterone tự nhiên có liên quan đến sự phát triển của ung thư nên rất nhiều nghiên cứu đã khảo sát xem liệu thuốc tránh thai có đóng vai trò gì trong nguy cơ ung thư hay không.
Đánh giá tác động lâu dài của thuốc tránh thai uống
Mặc dù một số nghiên cứu đã phát hiện mối liên quan giữa sử dụng thuốc tránh thai uống và tăng nguy cơ bị ung thư vú, nhưng một số nghiên cứu khác lại liên hệ thuốc tránh thai với giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung và ung thư đại trực tràng.
Mục đích của nghiên cứu mới là đánh giá lợi ích hoặc nguy cơ ung thư lâu dài của việc sử dụng thuốc tránh thai uống.
TS. Iversen và đồng nghiệp đã phân tích dữ liệu của 46.022 phụ nữ tham gia trong Nghiên cứu về thuốc tránh thai uống ở bác sĩ đa khoa U.K. Royal College từ 1968 đến 1969.
Các đối tượng trong nghiên cứu được theo dõi đến 44 năm, và các nhà nghiên cứu đánh giá sự phát triển của tất cả các loại ung thư trong thời gian này.
TS Iversen cho biết: "Do nghiên cứu diễn ra trong thời gian dài như vậy nên chúng ta có thể xem xét những tác động rất dài ngày, nếu có, liên quan đến thuốc"
dịch vụ thành lập doanh nghiệp tại quảng ninh
Các phát hiện "đáng yên tâm"
So với những phụ nữ chưa từng sử dụng thuốc tránh thai uống, những người từng sử dụng thuốc có nguy cơ ung thư đại trực tràng, nội mạc tử cung và ung thư buồng trứng thấp hơn.
Cụ thể, khoảng 1/3 số phụ nữ uống thuốc tránh thai được bảo vệ tránh sự phát triển của ung thư buồng trứng và ung thư nội mạc tử cung. Đối với ung thư đại trực tràng, khoảng 1/5 số trường hợp tránh được.
Đó không phải là tin vui duy nhất. Có sự gia tăng nguy cơ ung thư vú và ung thư cổ tử cung ở những phụ nữ hiện đang hoặc gần đây có dùng thuốc tránh thai uống, nhưng nguy cơ biến mất trong vòng 5 năm sau khi ngừng sử dụng thuốc. Và không có bằng chứng về nguy cơ cao hơn của những ung thư này về sau trong cuộc đời.
TS Iversen và các đồng nghiệp kết luận rằng sử dụng thuốc tránh thai uống có vẻ không làm cho phụ nữ bị phơi nhiễm với nguy cơ ung thư lâu dài, và nó có thể làm giảm nguy cơ ung thư một thời gian dài sau khi ngừng dùng thuốc.
Nhóm nghiên cứu nói rằng những phát hiện này sẽ mang lại sự an tâm cho phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai uống.
“Kết quả từ nghiên cứu dài nhất trên thế giới về thuốc tránh thai uống là đáng yên tâm. Cụ thể, người dùng thuốc viên không bị tăng nguy cơ ung thư nói chung trong suốt cuộc đời và tác dụng bảo vệ trước một số bệnh ung thư kéo dài ít nhất 30 năm", TS Lisa Iversen cho biết.
dịch vụ thành lập văn phòng đại diện
Hơn nữa, nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan giữa sử dụng thuốc tránh thai uống trong độ tuổi sinh đẻ và tăng nguy cơ ung thư mới trong cuộc sống sau này.
Nghiên cứu do TS Lisa Iversen, Viện Khoa học Y tế ứng dụng tại Aberdeen dẫn đầu, và kết quả mới được công bố trên tờ American Journal of Obstetrics and Gynaecology.
Theo Trung tâm Phòng chống bệnh dịch (CDC), khoảng 16% phụ nữ Mỹ từ 15 đến 44 tuổi hiện đang sử dụng thuốc tránh thai uống làm phương pháp ngừa thai.
“Viên phối hợp" là dạng thuốc tránh thai uống phổ biến nhất. Dạng thuốc này chứa phiên bản tổng hợp của các hoóc-môn estrogen và progesterone.
dịch vụ thành lập công ty tư nhân
Vì estrogen và progesterone tự nhiên có liên quan đến sự phát triển của ung thư nên rất nhiều nghiên cứu đã khảo sát xem liệu thuốc tránh thai có đóng vai trò gì trong nguy cơ ung thư hay không.
Đánh giá tác động lâu dài của thuốc tránh thai uống
Mặc dù một số nghiên cứu đã phát hiện mối liên quan giữa sử dụng thuốc tránh thai uống và tăng nguy cơ bị ung thư vú, nhưng một số nghiên cứu khác lại liên hệ thuốc tránh thai với giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung và ung thư đại trực tràng.
Mục đích của nghiên cứu mới là đánh giá lợi ích hoặc nguy cơ ung thư lâu dài của việc sử dụng thuốc tránh thai uống.
TS. Iversen và đồng nghiệp đã phân tích dữ liệu của 46.022 phụ nữ tham gia trong Nghiên cứu về thuốc tránh thai uống ở bác sĩ đa khoa U.K. Royal College từ 1968 đến 1969.
Các đối tượng trong nghiên cứu được theo dõi đến 44 năm, và các nhà nghiên cứu đánh giá sự phát triển của tất cả các loại ung thư trong thời gian này.
TS Iversen cho biết: "Do nghiên cứu diễn ra trong thời gian dài như vậy nên chúng ta có thể xem xét những tác động rất dài ngày, nếu có, liên quan đến thuốc"
dịch vụ thành lập doanh nghiệp tại quảng ninh
Các phát hiện "đáng yên tâm"
So với những phụ nữ chưa từng sử dụng thuốc tránh thai uống, những người từng sử dụng thuốc có nguy cơ ung thư đại trực tràng, nội mạc tử cung và ung thư buồng trứng thấp hơn.
Cụ thể, khoảng 1/3 số phụ nữ uống thuốc tránh thai được bảo vệ tránh sự phát triển của ung thư buồng trứng và ung thư nội mạc tử cung. Đối với ung thư đại trực tràng, khoảng 1/5 số trường hợp tránh được.
Đó không phải là tin vui duy nhất. Có sự gia tăng nguy cơ ung thư vú và ung thư cổ tử cung ở những phụ nữ hiện đang hoặc gần đây có dùng thuốc tránh thai uống, nhưng nguy cơ biến mất trong vòng 5 năm sau khi ngừng sử dụng thuốc. Và không có bằng chứng về nguy cơ cao hơn của những ung thư này về sau trong cuộc đời.
TS Iversen và các đồng nghiệp kết luận rằng sử dụng thuốc tránh thai uống có vẻ không làm cho phụ nữ bị phơi nhiễm với nguy cơ ung thư lâu dài, và nó có thể làm giảm nguy cơ ung thư một thời gian dài sau khi ngừng dùng thuốc.
Nhóm nghiên cứu nói rằng những phát hiện này sẽ mang lại sự an tâm cho phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai uống.
“Kết quả từ nghiên cứu dài nhất trên thế giới về thuốc tránh thai uống là đáng yên tâm. Cụ thể, người dùng thuốc viên không bị tăng nguy cơ ung thư nói chung trong suốt cuộc đời và tác dụng bảo vệ trước một số bệnh ung thư kéo dài ít nhất 30 năm", TS Lisa Iversen cho biết.
Uống trà 'thả cửa', tác hại khôn lường
Nhiều người uống mỗi ngày cả lít trà xanh. Khỏe hay không là chuyện cá biệt nhưng càng lúc càng đông sốbệnh nhân tăng chất sắt trong máu, trong gan.
Trà, thức uống lâu đời nhất trong lịch sử tiến hóa của con người, đã từ lâu vượt xa chân trời đến khắp năm châu để trở thành thức giải khát được tiêu thụ nhiều nhất sau... nước! Khoảng 4.700 năm trước Công nguyên, trà đã được mô tả trong cổ thư Trung Quốc như thuốc chống tuổi già xồng xộc vào nhà.
dịch vụ thành lập doanh nghiệp giá rẻ
Chỉ nói riêng ở CHLB Đức, nơi người dân xưa nay mạnh miệng với cà phê, con số hơn 5.000 tấn trà tiêu thụ trong năm vừa qua cho thấy khó có phương tiện truyền bá văn hóa bản sắc phương Đông nào hiệu quả hơn chén trà xanh!
“Nhẫm xà” cũng lắm công phu!
Nhiều người khi pha trà cứ tưởng phải nước thật sôi thì trà mới ngon, pha càng đậm càng tốt. Không đúng về cả khẩu vị lẫn mục tiêu phục vụ sức khỏe. Các nhà khoa học ở ĐH Heidelberg, CHLB Đức sau công trình nghiên cứu về trà kéo dài cả chục năm đã chứng minh rõ ràng:
dịch vụ thành lập dn tại hải dương
- Liều lý tưởng để tận dụng hoạt chất chống lão hóa của trà là năm tách (150 ml) mỗi ngày. Tách khác xa ly cối. Uống quá nhiều trà dễ dẫn đến rối loạn biến dưỡng do tích lũy khoáng tố sắt vốn có hàm lượng rất cao trong trà. Chính vì thế, không có gì khó hiểu khi chỉ uống vài tách trà thì tinh thần minh mẫn nhưng uống trà quá nhiều thì mệt mỏi lại là dấu hiệu thường gặp, nhất là ở người đã vướng bệnh gan.
- Nhiệt độ lý tưởng để trích ly tối đa hoạt chất trong trà là 75-80°C. Do đó, đừng pha trà với nước vừa nấu sôi mà nên để nguội khoảng năm phút. Để chén trà chỉ chứa toàn hoạt chất hữu ích, thời gian hãm trà cũng đừng lâu hơn bảy phút. Người có cơ tạng quá nhạy cảm nên tránh nước nhất, dù là nước nhất bao giờ cũng... ngon! Ngược lại, nếu muốn uống trà để chống bệnh thì nên pha nước nhất với nước nhì để có được hàm lượng tối đa của hoạt chất chống ung thư và lão hóa. Trà pha rồi vẫn có thể dùng thêm lần nữa nếu đừng để lâu hơn bốn giờ.
- Để ổn định chất lượng phải bảo quản trà trong chai lọ đậy thật kín vì hương vị và hoạt chất của trà dễ bị phá hủy bởi không khí và ánh sáng. Trà nên được đóng gói riêng biệt để giữ hương vị độc đáo. Tuyệt đối không nên giữ trà trong tủ lạnh vì trà sẽ tự “ướp” tất cả mùi thức ăn chứa trong tủ lạnh!
dịch vụ thành lập dn tại bắc ninh
Chén trà hơn thang thuốc
Thi nhân mặc khách thích uống trà vì trà hưng phấn chức năng tư duy. Tác dụng hưng phấn thần kinh của trà dù vậy bao giờ cũng lành mạnh hơn cà phê nhờ hàm lượng hoạt chất cafein trong trà, nếu tính trên cùng trọng lượng thì không bằng phân nửa lượng cafein trong cà phê. Bên cạnh đó, nhờ có sự hiện diện của nhóm hoạt chất catechin, cafein trong trà không gây phản ứng cồn cào bao tử, cũng không kích ứng niêm mạc đường tiêu hóa như với cafein trong cà phê, theo nhận định của Trung tâm Nghiên cứu ung thư ở CHLB Đức.
Bên cạnh tác dụng trên hệ thần kinh, trà là thức uống yên lòng người muốn lâu hư răng nhờ tác dụng bảo vệ men răng của khoáng tố fluor trong trà. Điểm bất lợi là trà dễ làm răng ngả màu vàng ở người uống trà quá thường nhưng lại ít chải răng súc miệng.
Theo kết quả nghiên cứu với trên 1.000 đối tượng ở ĐH South California, Hoa Kỳ, phụ nữ thường uống trà ít bị ung thư vú. Chuyên gia ngành ung bướu ở Nhật đi xa hơn nữa khi xác minh qua một công trình theo dõi kéo dài hơn bảy năm là chỉ có 16% trong số phụ nữ có thói quen uống ba tách trà mỗi ngày là nạn nhân của ung thư nhũ bộ, trong khi 24% các bà thuộc nhóm uống trà ít hơn ba lần trong ngày phải tìm đến bệnh viện ung bướu.
Trà xanh đúng là quà tặng của thiên nhiên dành cho người muốn ngăn ngừa hậu quả xơ vữa mạch máu mà không cần bơm thêm vào cơ thể dược phẩm dưới dạng hóa chất tổng hợp. Không lạ gì nếu người Nhật đang có tuổi thọ cao nhất thế giới.
Ngụm trà nào thấm thía?
Chén trà xanh, nhờ trà đạo trên đất nước thời nào nổi tiếng nhờ samurai buồn chút mổ bụng, đã từ lâu nhẹ nhàng bước qua ngưỡng cửa của nghệ thuật. Thông qua việc tập trung tư tưởng trong suốt thời gian chuẩn bị thức uống rất đơn giản nhưng khéo chiếm trọn lòng người qua ngõ thần kinh vị giác, khứu giác và thị giác, uống trà chẳng khác nào thiền định.
Theo quy ước của trà đạo trên đảo Phù Tang, ẩm khách muốn thưởng thức trọn vẹn hương vị tuyệt vời của chén trà xanh phải lường nước sao cho đủ uống đúng ba ngụm rưỡi. Nhưng tại sao người yêu trà nên giữ cho đúng ba ngụm rưỡi? Có lẽ ba ngụm đầu để tao nhân ba lần tận hưởng hương vị tích lũy của chén trà và nửa ngụm cuối để ẩm khách bất ngờ thấm thía ý nghĩa phù du của cuộc sống. Ngụm trà nửa vời sao quá ngắn ngủi, như cuộc sống nhuộm màu tranh đua trong gông cùm của công danh phú quý chợt một ngày bỗng trống vắng đìu hiu một khi sức khỏe nằm ngoài tầm tay!
Trà, thức uống lâu đời nhất trong lịch sử tiến hóa của con người, đã từ lâu vượt xa chân trời đến khắp năm châu để trở thành thức giải khát được tiêu thụ nhiều nhất sau... nước! Khoảng 4.700 năm trước Công nguyên, trà đã được mô tả trong cổ thư Trung Quốc như thuốc chống tuổi già xồng xộc vào nhà.
dịch vụ thành lập doanh nghiệp giá rẻ
Chỉ nói riêng ở CHLB Đức, nơi người dân xưa nay mạnh miệng với cà phê, con số hơn 5.000 tấn trà tiêu thụ trong năm vừa qua cho thấy khó có phương tiện truyền bá văn hóa bản sắc phương Đông nào hiệu quả hơn chén trà xanh!
“Nhẫm xà” cũng lắm công phu!
Nhiều người khi pha trà cứ tưởng phải nước thật sôi thì trà mới ngon, pha càng đậm càng tốt. Không đúng về cả khẩu vị lẫn mục tiêu phục vụ sức khỏe. Các nhà khoa học ở ĐH Heidelberg, CHLB Đức sau công trình nghiên cứu về trà kéo dài cả chục năm đã chứng minh rõ ràng:
dịch vụ thành lập dn tại hải dương
- Liều lý tưởng để tận dụng hoạt chất chống lão hóa của trà là năm tách (150 ml) mỗi ngày. Tách khác xa ly cối. Uống quá nhiều trà dễ dẫn đến rối loạn biến dưỡng do tích lũy khoáng tố sắt vốn có hàm lượng rất cao trong trà. Chính vì thế, không có gì khó hiểu khi chỉ uống vài tách trà thì tinh thần minh mẫn nhưng uống trà quá nhiều thì mệt mỏi lại là dấu hiệu thường gặp, nhất là ở người đã vướng bệnh gan.
- Nhiệt độ lý tưởng để trích ly tối đa hoạt chất trong trà là 75-80°C. Do đó, đừng pha trà với nước vừa nấu sôi mà nên để nguội khoảng năm phút. Để chén trà chỉ chứa toàn hoạt chất hữu ích, thời gian hãm trà cũng đừng lâu hơn bảy phút. Người có cơ tạng quá nhạy cảm nên tránh nước nhất, dù là nước nhất bao giờ cũng... ngon! Ngược lại, nếu muốn uống trà để chống bệnh thì nên pha nước nhất với nước nhì để có được hàm lượng tối đa của hoạt chất chống ung thư và lão hóa. Trà pha rồi vẫn có thể dùng thêm lần nữa nếu đừng để lâu hơn bốn giờ.
- Để ổn định chất lượng phải bảo quản trà trong chai lọ đậy thật kín vì hương vị và hoạt chất của trà dễ bị phá hủy bởi không khí và ánh sáng. Trà nên được đóng gói riêng biệt để giữ hương vị độc đáo. Tuyệt đối không nên giữ trà trong tủ lạnh vì trà sẽ tự “ướp” tất cả mùi thức ăn chứa trong tủ lạnh!
dịch vụ thành lập dn tại bắc ninh
Chén trà hơn thang thuốc
Thi nhân mặc khách thích uống trà vì trà hưng phấn chức năng tư duy. Tác dụng hưng phấn thần kinh của trà dù vậy bao giờ cũng lành mạnh hơn cà phê nhờ hàm lượng hoạt chất cafein trong trà, nếu tính trên cùng trọng lượng thì không bằng phân nửa lượng cafein trong cà phê. Bên cạnh đó, nhờ có sự hiện diện của nhóm hoạt chất catechin, cafein trong trà không gây phản ứng cồn cào bao tử, cũng không kích ứng niêm mạc đường tiêu hóa như với cafein trong cà phê, theo nhận định của Trung tâm Nghiên cứu ung thư ở CHLB Đức.
Bên cạnh tác dụng trên hệ thần kinh, trà là thức uống yên lòng người muốn lâu hư răng nhờ tác dụng bảo vệ men răng của khoáng tố fluor trong trà. Điểm bất lợi là trà dễ làm răng ngả màu vàng ở người uống trà quá thường nhưng lại ít chải răng súc miệng.
Theo kết quả nghiên cứu với trên 1.000 đối tượng ở ĐH South California, Hoa Kỳ, phụ nữ thường uống trà ít bị ung thư vú. Chuyên gia ngành ung bướu ở Nhật đi xa hơn nữa khi xác minh qua một công trình theo dõi kéo dài hơn bảy năm là chỉ có 16% trong số phụ nữ có thói quen uống ba tách trà mỗi ngày là nạn nhân của ung thư nhũ bộ, trong khi 24% các bà thuộc nhóm uống trà ít hơn ba lần trong ngày phải tìm đến bệnh viện ung bướu.
Trà xanh đúng là quà tặng của thiên nhiên dành cho người muốn ngăn ngừa hậu quả xơ vữa mạch máu mà không cần bơm thêm vào cơ thể dược phẩm dưới dạng hóa chất tổng hợp. Không lạ gì nếu người Nhật đang có tuổi thọ cao nhất thế giới.
Ngụm trà nào thấm thía?
Chén trà xanh, nhờ trà đạo trên đất nước thời nào nổi tiếng nhờ samurai buồn chút mổ bụng, đã từ lâu nhẹ nhàng bước qua ngưỡng cửa của nghệ thuật. Thông qua việc tập trung tư tưởng trong suốt thời gian chuẩn bị thức uống rất đơn giản nhưng khéo chiếm trọn lòng người qua ngõ thần kinh vị giác, khứu giác và thị giác, uống trà chẳng khác nào thiền định.
Theo quy ước của trà đạo trên đảo Phù Tang, ẩm khách muốn thưởng thức trọn vẹn hương vị tuyệt vời của chén trà xanh phải lường nước sao cho đủ uống đúng ba ngụm rưỡi. Nhưng tại sao người yêu trà nên giữ cho đúng ba ngụm rưỡi? Có lẽ ba ngụm đầu để tao nhân ba lần tận hưởng hương vị tích lũy của chén trà và nửa ngụm cuối để ẩm khách bất ngờ thấm thía ý nghĩa phù du của cuộc sống. Ngụm trà nửa vời sao quá ngắn ngủi, như cuộc sống nhuộm màu tranh đua trong gông cùm của công danh phú quý chợt một ngày bỗng trống vắng đìu hiu một khi sức khỏe nằm ngoài tầm tay!
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)